Tin hoạt động ngành kiểm sát
phần II- viện kiểm sát nhân dân thời kỳ 1960 - 1986
PHẦN II- VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN THỜI KỲ 1960 - 1986
Đây là thời kỳ hệ
thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân các cấp được hình thành và triển khai hoạt
động ở miền Bắc. Thực hiện Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1960, kế thừa kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Viện công tố, toàn
ngành Kiểm sát nhân dân vừa tiến hành củng cố, xây dựng lực lượng, tổ chức bộ
máy, vừa thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo định hướng công tác kiểm sát gắn
với việc phục vụ các nhiệm vụ chính trị, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa,
đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Điều 1 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 quy định, Viện kiểm sát thực hiện chức năng:
“Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách
nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững. Mục đích
của việc kiểm sát là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản
công cộng và những quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần đảm bảo cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện
thống nhất nước nhà được tiến hành thắng lợi”.
Cũng theo quy định
của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Viện kiểm sát có sáu công tác
sau: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông
tư, chỉ thị của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa
phương; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước và
công dân; Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Tòa án nhân
dân những người phạm pháp về hình sự; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra của cơ quan Công an và của các Cơ quan điều tra khác; Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Tòa án nhân dân và trong
việc chấp hành các bản án; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam
giữ của các trại giam; Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự
quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Hệ thống tổ chức
gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự. Các
Viện kiểm sát nhân dân địa phương gồm có: Viện kiểm sát nhân dân ở các khu vực
tự trị (Viện kiểm sát nhân dân tối cao căn cứ vào đặc điểm tình hình của các
khu tự trị mà tổ chức Viện kiểm sát nhân dân địa phương các cấp trong khu tự
trị. Viện kiểm sát cấp khu tự trị là cấp trên của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh); Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị
hành chính tương đương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị
xã hoặc đơn vị hành chính tương đương.
Nguyên tắc tổ chức
và hoạt động là tập trung thống nhất lãnh đạo theo ngành dọc. Viện kiểm sát
nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, các Viện
kiểm sát nhân dân địa phương có quyền độc lập, các cơ quan nhà nước khác không
được can thiệp. Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm
sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Trong giai đoạn
này, ngành Kiểm sát nhân dân được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Chính trị và các
đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Ngày 01/02/1963, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về
công tác kiểm sát. Đây là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng đối với
ngành Kiểm sát nhân dân. Nghị quyết đã xác định những định hướng quan trọng về
tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân: “Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân của ta là một trong những công cụ chuyên chính của Nhà nước dân chủ nhân dân
đang làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, được tổ chức ra giữa lúc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc bắt đầu lấy việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội làm trọng tâm, đồng thời hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Ngành Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho
pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế xã hội
chủ nghĩa được tôn trọng, do đó mà góp phần vào việc tăng cường chuyên chính
đối với bọn phản cách mạng, bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân được tôn
trọng; đồng thời cũng góp phần vào việc tăng cường kỷ luật xã hội trong quần
chúng nhân dân”.
Xác định công tác
kiểm sát thực chất là công tác chính trị, quán triệt các nghị quyết của Đảng,
hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn này là tập trung phục vụ
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc,
bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, trấn áp bọn phản cách mạng và bọn tội phạm.
Khi chiến tranh phá hoại mở rộng ra miền Bắc, công tác kiểm sát đã kịp thời
chuyển hướng hoạt động, phục vụ các yêu cầu của thời chiến trên cả hai mặt trận
sản xuất và chiến đấu. Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã phối hợp chặt chẽ với
các ngành Công an, Tòa án tập trung chống địch phá hoại, nghiêm trị bọn gián
điệp, biệt kích và phản động, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật gây cản
trở việc thực hiện chính sách hậu phương quân đội và chi viện cho tiền tuyến; đấu
tranh khắc phục các biểu hiện buông lỏng kỷ luật thời chiến, vi phạm các quyền
dân chủ của nhân dân. Chống các hành vi phá hoại kinh tế, làm tốt công tác kiểm
sát điều tra và kiểm sát xét xử để xử lý nghiêm khắc và kịp thời các phần tử
phá hoại sản xuất, máy móc, thiết bị, kho tàng, tài sản của Nhà nước và tập
thể, tích cực phục vụ cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường
quản lý kinh tế, tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu và cuộc vận động
cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp; bảo đảm chính sách hậu phương quân
đội. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân. Phương
châm tiến hành công tác kiểm sát là vừa chống, vừa xây, lấy xây làm mục đích;
vừa chống, vừa phòng ngừa vi phạm và tội phạm; vừa xây dựng, vừa chiến đấu;
tranh thủ sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, dựa vào quần chúng, đoàn
kết phối hợp tốt với các ngành. Với phương châm vừa chiến đấu vừa xây dựng,
ngành Kiểm sát đã từng bước xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ để triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành.
Công tác kiểm sát giai đoạn này cũng đã thể hiện rõ tư tưởng của đồng chí Hoàng
Quốc Việt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đầu tiên: Công tác kiểm
sát thực chất là công tác chính trị, công tác kiểm sát phải phục vụ nhiệm vụ
chính trị.
Quán triệt các Nghị
quyết của Trung ương về các cuộc vận động "ba xây, ba chống” trong các cơ
sở công nghiệp quốc doanh, vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp,
vận động dân chủ ở miền núi, hoạt động kiểm sát bước đầu hướng vào lĩnh vực
quản lý kinh tế ở một số xí nghiệp, nông trường quốc doanh. Cùng với việc xử lý
một số trường hợp cố ý làm trái các chế độ chính sách của Nhà nước, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã đề xuất với Trung ương một số vấn đề về tăng cường công
tác quản lý sản xuất nông nghiệp của hợp tác xã. Hoạt động của ngành Kiểm sát
nhân dân đã chú trọng bám sát hai vấn đề mà Đảng và Nhà nước quan tâm, đó là
việc bảo vệ quyền dân chủ ở nông thôn và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, chống
tham ô, lãng phí của công. Qua kết quả kiểm sát tại chỗ hàng trăm hợp tác xã
nông nghiệp, Viện kiêm sát nhân dân tối cao đã kiến nghị với Đảng và Nhà nước
ban hành Điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp.
Trên lĩnh vực bảo
vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ngành Kiểm sát nhân dân đã tập
trung vào việc đấu tranh chống các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia và các
loại tội phạm nguy hiểm khác. Viện kiểm sát các cấp đã phối hợp chặt chẽ với Cơ
quan điều tra và Toà án tập trung đấu tranh, trấn áp kịp thời các hoạt động
gián điệp, phá hoại, hoạt động phỉ, gây bạo loạn, hoạt động lợi dụng tôn giáo,
gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân...
Từ năm 1965, miền
Bắc trực tiếp đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa sản
xuất, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, vừa phải ra sức chi viện sức người,
sức của cho cách mạng miền Nam. Trước tình hình mới, Viện kiểm sát các cấp tập
trung hoạt động phục vụ các nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ tài sản xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ vật tư quốc phòng, hàng hoá do các nước anh em và bè bạn viện
trợ, đấu tranh chống các hành vi trộm cắp, tham ô, phân phối, sử dụng sai chính
sách, chế độ... Nhiều Viện kiểm sát địa phương đã tích cực chủ động phối hợp
với Toà án đưa ra truy tố, xét xử một số vụ án điển hình; trừng trị nghiêm khắc
các hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, vật tư quốc phòng, quân trang,
lương thực, các vụ đầu cơ, buôn lậu, làm giả tem phiếu, móc ngoặc trong việc phân
phối hàng hoá, vật tư sai chế độ chính sách làm ảnh hưởng đến sức chiến đấu của
quân đội và đời sống của nhân dân. Qua việc thực hành quyền công tố các vụ án
tại phiên toà, Viện kiểm sát đã vạch trần hành vi phạm tội của các bị cáo, đề
xuất mức xử lý nghiêm minh, đồng thời kiến nghị với các cơ quan hữu quan khắc
phục thiếu sót, khuyết điểm trong công tác quản lý, có tác dụng phòng ngừa cao.
Cùng với nhiệm vụ đấu tranh, xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã thường xuyên kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc chấp hành các chính sách hậu phương quân đội, việc
thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động thời chiến; kịp thời giải quyết
các vụ xâm phạm trật tự trị an ở các vùng có chiến sự, các vụ hình sự, dân sự,
ly hôn có quan hệ đến quân nhân. Trong thời kỳ này, ngành Kiểm sát nhân dân
cũng đã tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề về từng khâu nghiệp vụ, về đấu tranh
chống từng loại tội phạm, tổng kết công tác kiểm sát phục vụ chính sách dân tộc
của Đảng, tổ chức rút kinh nghiệm về một số biện pháp nghiệp vụ.
Về công tác xây
dựng ngành, đã tập trung làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Mở
trường đào tạo cán bộ kiểm sát để bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp lý và
nghiệp vụ cho cán bộ của ngành và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ. Cuối năm 1972,
Ban công tác miền Nam thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được thành lập, với
nhiệm vụ xây dựng đề án về tổ chức cán bộ, về phương thức hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân ở các tỉnh phía Nam. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã cùng
với hai ngành Toà án và Công an thống nhất chủ trương xây dựng đường lối công
tác tư pháp ở vùng mới giải phóng và đào tạo đội ngũ cán bộ cho miền Nam. Nhờ
có sự chủ động chuẩn bị, sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ngành Kiểm
sát đã kịp thời điều động hàng trăm cán bộ thuộc Viện kiểm sát các cấp, khẩn
trương xây dựng hệ thống các cơ quan Viện kiểm sát ở các tỉnh phía Nam để triển
khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, góp phần bảo vệ các thành quả của
cách mạng và giữ vững an ninh chính trị, trật tự trị an ở vùng mới giải phóng.
2.
Thời
kỳ từ năm 1975 đến năm 1986
Từ năm 1975 đến năm
1981, Viện kiểm sát nhân dân triển khai tổ chức và hoạt động trên cả nước, tiếp
tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ; xây dựng và kiện toàn tổ chức theo quy định
của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
Ngày 18/12/1980,
Quốc hội khóa VI, Kỳ họp thứ 7
thông qua Hiến pháp năm 1980. Hiến pháp năm 1980 có 05 điều hiến định về Viện
kiểm sát nhân dân, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong bộ máy nhà nước và bổ sung những quy định mới, xác định chức năng,
nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân: “Kiểm sát
việc tuân thủ theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ
trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang
nhân dân, các nhân viên nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”; khẳng định các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Viện kiểm sát nhân dân là nguyên tắc độc
lập và tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Trên cơ sở Hiến
pháp năm 1980, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 được ban hành, quy
định cụ thể các nhiệm vụ: “Trong phạm vi chức năng của mình, các Viện kiểm sát
nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi
chính đáng của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật”.
Hệ thống tổ chức
của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn này gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố; Viện kiểm sát nhân dân các
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và hệ thống Viện kiểm sát quân sự (gồm
có: Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự cấp thứ hai, Viện
kiểm sát quân sự khu vực).
Từ năm 1976 đến năm
1986 là giai đoạn cả nước tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh
vừa hòa bình lại vừa có chiến tranh xảy ra ở biên giới Tây Nam và biên giới
phía Bắc. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, thời kỳ này, ngành Kiểm sát
được tổ chức và hoạt động trên phạm vi toàn quốc, có nhiệm vụ chung là bảo vệ
pháp chế thống nhất. Nhưng do nhiệm vụ của cách mạng ở hai miền còn khác nhau
nên công tác kiểm sát ở mỗi miền cũng có những đặc điểm riêng. Viện kiểm sát
các tỉnh phía Bắc tập trung làm tốt ba nhiệm vụ là bảo vệ tài sản và chế độ
quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các quyền dân chủ của nhân dân; bảo vệ
trật tự xã hội và an ninh chính trị. Viện kiểm sát các tỉnh phía Nam cùng với
các ngành chuyên chính, trấn áp kịp thời, mạnh mẽ bọn phản cách mạng, gián
điệp, phản động, các tổ chức vũ trang gây bạo loạn, xúi giục, lừa đảo người
trốn đi nước ngoài. Tập trung vào việc đấu tranh xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản
phản động đầu cơ, tích trữ, phá rối thị trường, chống các tệ nạn xã hội. Tích
cực phục vụ chủ trương, chính sách thống nhất tiền tệ, cải tạo công thương nghiệp
tư bản tư doanh và thực hiện cách mạng quan hệ sản xuất ở nông thôn, coi đó là
nhiệm vụ hàng đầu để ổn định tình hình vùng mới giải phóng.
Hàng năm, ngành
Kiểm sát nhân dân căn cứ vào chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà
nước về phát triển kinh tế - xã hội để xác định chủ trương, nhiệm vụ và trọng
tâm công tác cụ thể; chủ động, tích cực trong thực hiện chức năng nhiệm vụ, góp
phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, đấu tranh phòng chống vi
phạm và tội phạm, khắc phục các biểu hiện tiêu cực, giữ gìn kỷ cương xã hội,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo an ninh, trật tự và củng cố quốc
phòng, kịp thời và kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử loại trọng tội, bảo vệ và
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Trong giai đoạn
này, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã cùng với Toà án nhân dân tối cao và Bộ
Nội vụ (nay là Bộ Công an) thống nhất đường lối xử lý đối với một số loại tội
phạm mới. Đã truy tố, đưa ra xét xử nghiêm minh các vụ án gián điệp, bạo loạn,
lợi dụng hoạt động tôn giáo để chống phá Nhà nước, những kẻ lưu manh chuyên
nghiệp, côn đồ hung hãn, những cán bộ thoái hoá, biến chất phạm tội... Điển
hình là đã đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ án xâm phạm an
ninh quốc gia như vụ phản cách mạng ở nhà thờ Vĩnh Sơn; vụ Lê Quốc Tuý, Mai Văn
Hạnh... Qua đó, đã vạch trần trước dư luận trong và ngoài nước những âm mưu,
hành động phá hoại nhiều mặt chống Nhà nước và nhân dân. Đồng thời, rút ra
những bài học cảnh giác trước âm mưu của kẻ địch.
Thông qua công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở một số ngành quản lý kinh tế trọng điểm và
đơn vị sản xuất kinh doanh, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phát hiện và báo
cáo với Đảng và Nhà nước về những sơ hở trong các chủ trương, biện pháp quản lý
mà những đối tượng vụ lợi có thể lợi dụng để thực hiện hành vi làm trái chính
sách, chế độ... giúp Trung ương xem xét để có những bổ sung, chấn chỉnh kịp
thời. Nhiều Viện kiểm sát địa phương đã chủ động đề xuất với cấp uỷ, chính quyền
địa phương mở hội nghị pháp chế để kiểm điểm việc chấp hành pháp luật ở địa
phương. Qua đó, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong cán bộ, lãnh đạo các
cấp, các ngành, tăng cường pháp chế tại địa phương.
Để góp phần bảo vệ
các quyền tự do, dân chủ của công dân, Viện kiểm sát các cấp đã tăng cường hoạt
động kiểm sát điều tra, kiểm sát hoạt động bắt, giam, giữ và tập trung cải tạo;
tăng cường kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các đơn khiếu
nại, tố cáo của các cơ quan hữu quan để kịp thời phát hiện vi phạm, ban hành
kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm.
Về công tác xây
dựng ngành, trên cơ sở Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã xây dựng Quy chế ngạch Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân trình Hội đồng Nhà nước phê duyệt. Đồng thời, xây dựng các quy chế công
tác, chế độ trách nhiệm, lề lối làm việc của mỗi cấp kiểm sát, các quy chế về
trình tự hoạt động của từng phương thức kiểm sát làm cơ sở đưa hoạt động kiểm sát đi dần vào nề nếp và bảo đảm sự
lãnh đạo tập trung thống nhất trong ngành. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ cho cán bộ trong ngành được thực hiện ở tất cả các cấp với những hình thức
thích hợp: Tập trung tại trường, tại chức, tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn trong
nước và nước ngoài. Công tác tổng kết nghiệp vụ, xây dựng lý luận khoa học công
tác kiểm sát được chú trọng; ngành Kiểm sát nhân dân đã bước đầu xây dựng được
hệ thống giáo trình các môn học công tác kiểm sát tương đối hoàn chỉnh. Quan hệ
phối hợp giữa Viện kiểm sát với các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan hữu
quan được tăng cường, đạt hiệu quả tích cực. Hoạt động hợp tác tương trợ giữa
Viện kiểm sát Việt Nam với Viện kiểm sát các nước xã hội chủ nghĩa anh em được
duy trì và từng bước mở rộng.
Người soạn tin: Thu Bắc- Đình Đức
Tin liên quan:
- Đoàn thể thao Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự Hội thao ngành Kiểm sát nhân dân “ Cúp Báo Bảo vệ pháp luật lần thứ XII” năm 2023
- Đoàn thể thao Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự hội thao ngành Kiểm sát nhân dân “ cúp báo bảo vệ pháp luật lần thứ XI” năm 2022
- Hội nghị giao ban công tác 6 tháng đầu năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội với Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc
- Chi đoàn Viện 4 - Viện cấp cao 1 mang yêu thương đến với các bệnh nhi ngày giáp Tết
- Đoàn thể thao Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham dự Hội thao kỷ niệm 60 năm ngày thành lập ngành Kiểm sát nhân dân (26/7/1960 - 26/7/2020) tại thành phố Đà Nẵng
- Đề cương tuyên truyền 60 năm ngày thành lập ngành Kiểm sát nhân dân
- phần I- sự ra đời của viện kiểm sát nhân dân
- phần III- viện kiểm sát nhân dân trong sự nghiệp đổi mới và cải cách tư pháp (từ năm 1987 đến nay)
- phần IV - khái quát về quá trình xây dựng và phát triển của viện kiểm sát quân sự
- phần V - những thành tựu nổi bật và bài học kinh nghiệm của ngành kiểm sát nhân dân
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Kế hoạch tổ chức thi tuyển Kiểm tra viên chính, Kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát nhân dân
- Kháng nghị một phần bản án, đề nghị giám đốc thẩm vụ Vũ ‘nhôm’
- Lấy phiếu tín nhiệm để tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm chức danh Kiểm sát viên VKSND tối cao
- VKSND tối cao và các VKSND cấp cao triển khai công tác Quý IV/2019
- Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên đối với các tội phạm xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm phụ nữ và trẻ em
- Đồng chí Nguyễn Quang Thành, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhiệm kỳ 2015 – 2020
- Kế hoạch thi tuyển Kiểm sát viên năm 2019
- Thành lập Ban chỉ đạo và ban hành Kế hoạch tổ chức kỷ niệm 60 năm thành lập ngành KSND
- Quán triệt, triển khai thi hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước trong ngành Kiểm sát nhân dân
- Đảng bộ VKSND tối cao tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các nội dung Hội nghị Trung ương 10 khóa XII