Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện KSND cấp cao tại Hà Nội

29/10/2024 | 0 | 0

Thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã báo cáo Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 12/2023/KDTM-P ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, về giải quyết vụ án Tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản” giữNguyên đơn làNgân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam với Bịđơn là Bà Trần Thị Thu Hiền; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đặng Hồng Tuyên bà Đỗ Thị Trung và 1 số người liên quan khác.

Nội dung vụ án và quá trình giải quyết vụ án thể hiện: Ngày 11/7/2014, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Hạ Long (viết tắt là Ngân hàng) và bà Trần Thị Thu Hiền ký kết Hợp đồng tín dụng ngắn hạn số 22/14/BL/PMT, với nội dung: Ngân hàng cho vay 2.600.000.000 đồng; thời hạn cho vay 12 tháng kể từ ngày ký; mục đích vay bổ sung vốn lưu động hoạt động kinh doanh; lãi suất cho vay trong hạn là 10%/năm. Ngân hàng đã giải ngân cho bà Hiền 2.600.000.000 đồng theo Giấy nhận nợ số 01 ngày 11/07/2014. Tài sản bảo đảm cho khoản vay gồm: Quyền sử dụng 87,7m2 đất, tại tổ 2, khu 4, phường Hồng Hà, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, theo GCNQSD đất và tài sản khác gắn liền với đất số BA 984543 do UBND TP Hạ Long cấp ngày 08/02/2010 cho ông Lê Việt Hà và bà Đỗ Thị Hậu, theo HĐTC số 25A/13/HDTC/PAT ngày 27/06/2013, đăng ký thế chấp tại VPĐK QSD đất TP Hạ Long tháng 7/2013; Quyền sử dụng 117,8m2 đất, tại khu 1, phường Yên Thanh, TP Uông Bí, theo GCNQSD đất và tài sản khác gắn liền với đất số BĐ 999699, do UBND TP Uông Bí cấp ngày 01/08/2011 cho ông Đặng Hồng Tuyên và bà Đỗ Thị Trung, theo HĐTC số 25B/13/HDTC/PAT ngày 27/06/2013, đăng ký thế chấp tại VPĐK quyền sử dụng đất TP Uông Bí tháng 7/2013; Quyền sử dụng 33,95m2 đất, tại tổ 24, khu 7, phường Quang Trung, TP Uông Bí, theo GCNQSD đất số P137558 do UBND tỉnh Quảng Ninh cấp ngày 02/4/2001 cho ông, bà Đặng Hồng Tuyên, theo HĐTC quyền sử dụng đất số 25C/13/HĐTC/PAT ngày 27/6/2013, đăng ký thế chấp tại VPĐK quyền sử dụng đất TP Uông Bí ngày 01/7/2013.

Do bà Hiền vi phạm nghĩa vụ trả nợ, tháng 8/2015 Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Hiền phải trả tổng số tiền (gốc và lãi) theo hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa các bên. Trường hợp bà Hiền không trả được nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Ngày 05/11/2015, ông Tuyên, bà Trung đã nộp 823.000.000 đồng để trả nợ cho khoản vay của bà Hiền. Ngân hàng đã giải chấp tài sản là quyền sử dụng 117,8m2 tại khu 1, phường Yên Thanh, TP Uông Bí và trả lại GCNQSD đất cho ông Tuyên, bà Trung. Ngày 26/04/2016, bà Hậu nộp số tiền là 958.181.000 đồng để trả nợ cho khoản vay của bà Hiền, Ngân hàng đã giải chấp tài sảlà QSD 87,7m2đất tại tổ 2, khu 4, phường Hồng Hà, TP Hạ Long và trả lại GCNQSD đất cho ông Hà, bà Hậu. 

Bà Hiền thừa nhận có vay của Ngân hàng số tiền 2.600.000.000đ nhưng bà không sử dụng vì sau khi vay bà đưa cho bà Đỗ Thị Oanh (là em gái của bà Đỗ Thị Trung); việc ký kết Hợp đồng thế chấp số 25C/13/HDTC/PAT ngày 27/6/2013 giữa Ngân hàng với ông Tuyên và bà Trung do các bên tự nguyện ký kết, bà đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về việc xử lý tài sản thế chấp của ông Tuyên là quyền sử dụng 33,95m2 đất, tại tổ 24, khu 7, phường Quang Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Ông Ông Đặng Hồng Tuyên và bà Đỗ Thị Trung trình bày nhà đất có nguồn gốc của ông Tuyên và vợ cũ là bà Hương (đã chết năm 2009) nhận chuyển nhượng của bà Cao Thị Bí vào năm 1999, là tài sản chung của ông Tuyên với bà Hương. Do ông, bà không hiểu biết pháp luật nên đã cho mượn tài sản để thế chấp. Việc ông, bà thế chấp không được sự đồng ý của các hàng thừa kế thứ nhất của bà Hương. Ông, bà chưa bao giờ gặp mặt cán bộ Ngân hàng, không đến Văn phòng công chứng để ký Hợp đồng thế chấp, cán bộ ngân hàng không xuống thẩm định tài sản thế chấp của gia đình ông, bà. Ông Tuyên đã có đơn yêu cầu độc lập đề nghị tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 25C/13/HĐTC/PAT ngày 27/6/2013 vô hiệu, buộc Ngân hàng trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông.

Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2021/KDTM-ST ngày 11/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long quyết định: Buộc bà Hiền phải trả cho Ngân hàng số tiền gốc và lãi đã vay theo Hợp đồng tín dụng số 22/14/BL/PMT ngày 11/7/2014 tính đến ngày 11/8/2021 là 1.856.428.558 đồng; Không chấp nhận yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng; Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Tuyên: Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 25C/2013/HDTC/PAT ngày 27/6/2013 vô hiệu. Buộc ngân hàng phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P137558 do UBND tỉnh Quảng Ninh cấp ngày 02/04/2001 cho ông Tuyển.

Sau khi xét xử sơ thẩm Ngân hàng kháng cáo về phần tài sản thế chấp. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 07/2021/KDTM-ST ngày 28/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quyết định:Hủy phần xử lý tài sản thế chấp. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long giải quyết theo thủ tục chung.

Quá trình giải quyết lại vụ án, tại cấp sơ thẩm Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng, tuyên hợp đồng thế chấp số 25C ngày 27/6/2013 có hiệu lực đối với phần thế chấp của ông Tuyên, vô hiệu một phần đối với phần thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà Hương và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Bản án sơ thẩm số 08/2023/HNGĐ-ST ngày 21/9/2023 của Tòa án nhân thành phố Hạ Long đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng 33,95m2 đất, tại địa chỉ: Tổ 24, khu 7, phường Quang Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Đặng Hồng Tuyên: Tuyên bố Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 25C/2013/HĐTC/PAT ngày 27/6/2013 vô hiệu; buộc Ngân hàng phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P137558 do UBND tỉnh Quảng Ninh cấp ngày 02/4/2001 mang tên “ông, bà: Đặng Hồng Tuyên” cho ông Tuyên.

Sau đó, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh kháng nghị phúc thẩm; Ngân hàng kháng cáo. Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 12/2023/KDTM-PT ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định: Không chấp nhận nội dung kháng cáo của Ngân hàng, bác kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh; giữ nguyên Bản án sơ thẩm. 

Ngày 17/7/2024, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên. Ngày 05/9/2024, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, hủy Bản án phúc thẩm; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm lại.

Vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩmGiấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P137558 do UBND tỉnh Quảng Ninh cấp ngày 02/4/2001đứng tên “ông, bà: Đặng Hồng Tuyên”, tại thời điểm ký hợp đồng thế chấp, ông Tuyên và bà Trung là vợ chồng; Hợp đồng thế chấp có chữ ký của ông Tuyên, bà Trung và Hợp đồng thế chấp đã được công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật nên phát sinh hiệu lực. Ông Tuyên không trình bày về nguồn gốc tài sản thế chấp nên Ngân hàng không biết được quyền sử dụng đất là tài sản chung của ông Tuyên và bà Hương

Mặc dù nguồn gốc tài sản là tài sản chung của vợ chồng ông Tuyên, bà Hương; song bà Hương đã chết từ năm 2009, nên phần tài sản của bà Hương thuộc quyền các hàng thừa kế của bà Hương. Theo quy định tại Điều 216 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 223 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”

Trường hợp này, do các đồng sở hữu không có thỏa thuận về quyền sử dụng đất và không ký Hợp đồng thế chấp nên cần xác định quyền sử dụng đất của các đồng sở hữu theo phần và áp dụng quy định của pháp luật về sở hữu chung theo phần để giải quyết. Do vậy, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực đối với phần thế chấp của ông Tuyên và vô hiệu một phần đối với quyền sử dụng đất của các hàng thừa kế của bà Hương (gồm ông Hồng, bà Hoa, anh Cường, chị Trang và chị Vân) theo Điều 135 Bộ luật Dân sự năm 2005. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên vô hiệu toàn bộ Hợp đồng thế chấp nêu trên là không đúng, gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng.

                                                                                      Người viết

 

 

                                                                                 Vũ Thị Thúy - Viện 4

Thông báo khác:

Trang: 1/3
Chuyển đến: