Thông báo rút kinh nghiệm về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản”
Nội dung vụ án: Vợ chồng cụ Nguyễn Văn A và cụ Đàm Thị B sinh được 05 người con là ông
Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Văn E (chết năm 1990, không có vợ
con), ông Nguyễn Văn G và bà Nguyễn Thị H. Ngoài ra, cụ Nguyễn Văn A còn chung
sống như vợ chồng với cụ Đàm Thị P và sinh được 01 người con là bà Nguyễn Thị
T. Cụ A chết năm 1978, cụ B chết năm 1998, không để lại di chúc. Di sản hai cụ
để lại là quyền sử dụng hai thửa đất 122 và 235 tại thôn Y, xã Đ, huyện G, tỉnh
B. Sau khi hai cụ chết, ông Nguyễn Văn D cùng vợ và các con sinh sống trên hai
thửa đất trên. Ngày 02/01/2002, Ủy ban nhân dân huyện G cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (GCN) đối với hai thửa đất 122 và 235 với tổng diện tích 732m2
cho hộ ông Nguyễn Văn D, song quá trình kê khai làm thủ tục cấp GCN, không được
sự đồng ý của ông C và ông G. Năm 2012, vợ chồng ông D làm 01 ngôi nhà cấp 4 và
ở trên thửa 235, còn ngôi nhà 5 gian trên thửa 122 giao lại cho ông C quản lý.
Do không thỏa thuận được việc chia di sản thừa kế nên ông C và ông G khởi kiện
yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế đối với quyền sử dụng đất tại thửa 122, thửa
235 và yêu cầu hủy GCN do Ủy ban nhân dân huyện G cấp đối với thửa 122, thửa
235 cho hộ ông Nguyễn Văn D.
Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2019/DS-ST
ngày 18/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh B quyết định: Chấp nhận yêu
cầu khởi kiện chia thừa kế tài sản của ông Nguyễn Văn C và ông Nguyễn Văn G. Xác
nhận di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn A và cụ Đàm Thị B để lại gồm quyền sử
dụng thửa đất số 122 diện tích 223,1m2 và thửa đất số 235 diện tích
413,2m2. Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Nguyễn Văn A gồm: cụ
Đàm Thị B, ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Văn G, bà Nguyễn Thị
T, bà Nguyễn Thị H; hàng thừa kế thứ nhất của cụ Đàm Thị B gồm: ông Nguyễn Văn
C, ông Nguyễn Văn D, ông Nguyễn Văn G, bà Nguyễn Thị H. Ghi nhận sự tự nguyện
của bà Nguyễn Thị T cho ông C được hưởng toàn bộ phần di sản mà bà T được chia
và sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị H tự nguyện chia đều phần di sản bả H được
hưởng cho ông C, ông D và ông G. Giao cho ông Nguyễn Văn C được quyền quản lý,
sử dụng thửa đất số 122 và được nhận tiền trích trả giá trị chênh lệch quyền sử
dụng đất của ông Nguyễn Văn D là 80.355.000 đồng, của ông Nguyễn Văn G là 80.355.000
đồng. Giao cho ông Nguyễn Văn D được quyền sử dụng, định đoạt ½ thửa đất 235 diện
tích 206,6m2. Giao cho ông Nguyễn Văn G được quyền quản lý, sử dụng
phần còn lại của thửa đất 235. Hủy GCN của Ủy ban nhân dân huyện G cấp cho hộ
ông Nguyễn Văn D đối với thửa đất số 122 và 235.
Ngày 24/01/2019, ông Nguyễn Văn D kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm.
Ngày 08/10/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét
xử phúc thẩm, tuyên hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên để giải quyết
lại theo quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Thứ nhất, Tòa án cấp sơ thẩm xác định
di sản thừa kế không đúng. Di sản thừa kế mà cụ A và cụ B để lại là quyền sử
dụng hai thửa đất 122 và 235, tờ bản đồ số 9 với tổng diện tích 732m2.
Tuy nhiên, năm 2017 Nhà nước đã thu hồi 66,1m2 tại thửa 122, bồi
thường số tiền 436.260.000 đồng và thu hồi 81,8m2 tại thửa 235, bồi
thường số tiền 539.880.000 đồng. Bản án sơ thẩm xác định di sản thừa kế gồm
quyền sử dụng 02 thửa đất 122 và 235 với tổng diện tích 636,3m2 (là
diện tích đất còn lại thực tế sau khi bị Nhà nước thu hồi một phần) là chưa đầy
đủ. Cần xác định di sản thừa kế của cụ A và cụ B để lại bao gồm quyền sử dụng
02 thửa đất 122, 235 (phần còn lại sau khi bị thu hồi) và tổng số tiền được
nhận do Nhà nước bồi thường khi thu hồi một phần đất của hai thửa đất trên là
976.140.000 đồng mới đảm bảo quyền lợi của các đương sự.
Thứ hai, theo Biên bản thẩm định tại
chỗ thể hiện cho thấy có sự chênh lệch tăng 52,2m2 về số đo diện
tích thực tế của hai thửa đất 122 và 235 (khi chưa bị thu hồi một phần) so với
diện tích 732m2 được Nhà nước công nhận theo GCN quyền sử dụng đất
đã cấp. Tòa án sơ thẩm chưa làm rõ nội dung này đã xác định diện tích sử dụng
hợp pháp của thửa đất số 122 và số 235 mà cụ A, cụ B để lại có diện tích 784,2m2
như hiện trạng xem xét thẩm định tại chỗ là chưa có cơ sở vững chắc. Tại phiên
tòa phúc thẩm, ông D cho rằng trong diện tích đất tại thửa 235 còn có khoảng
120m2 đất gia đình ông D được ông Nguyễn Văn K cho nhưng không làm
giấy tờ. Tòa cấp sơ thẩm chưa làm rõ vấn đề này là thiếu sót trong việc thu
thập và đánh giá chứng cứ.
Thứ ba, khi giải quyết vụ án, Tòa
án cấp sơ thẩm không tính công sức quản lý, tôn tạo, duy trì khối di sản thừa
kế trên cho ông D, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của ông D.
Thứ tư, khi phân chia di sản thừa
kế đối với thửa đất 235, Tòa án cấp sơ thẩm không xác định trên đất có những
tài sản gì, trị giá mỗi tài sản là bao nhiêu để từ đó làm căn cứ buộc ông D
phải di dời hoặc buộc ông G phải thanh toán trị giá tài sản trên đất cho ông D
là chưa giải quyết triệt để vụ án.
Thứ năm, Tòa án cấp sơ thẩm quyết
định chia đôi phần diện tích thửa đất 235 mà không làm rõ trên thực địa để xác
định chính xác ranh giới đất khi phân chia, không có số liệu đo đạc của cơ quan
chuyên môn và cũng không có sơ đồ phân chia đất kèm theo Bản án, không xác định
xem việc phân chia đó có ảnh hưởng gì đến công trình trên đất hay không là
thiếu sót, không đảm bảo tính khả thi trong thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn vi phạm trong việc
áp dụng pháp luật về án phí. Trong vụ án này, các đương sự gồm các ông: Nguyễn
Văn C, sinh năm 1947; Nguyễn Văn D, sinh năm 1951; Nguyễn Văn G, sinh năm 1958.
Tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm các ông đều đã trên 60 tuổi, theo quy định
tại Điều 2 Luật Người cao tuổi, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội thì các ông đều thuộc trường hợp được miễn nộp án phí. Tuy
nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn tính và buộc nộp án phí sơ thẩm đối với ông C,
ông D và ông G là không đúng quy định của pháp luật.
Tác giả: Trần
Thị Thùy Linh (Viện 2)
Thông báo khác:
- Thông báo kết quả thi tuyển công chức kỳ tuyển dụng của VKSND tối cao, VKSND cấp cao tại Hà Nội, VKSND Bắc Kạn (Vòng 2)
- Thông báo về việc thi tuyển công chức tại VKSND tối cao, VKSND cấp cao tại Hà Nội, VKSND tỉnh Bắc Kạn (Vòng 2)
- Kết quả thi tuyển công chức kỳ tuyển dụng công chức của VKSND tối cao, VKSND cấp cao tại Hà Nội, VKSND tỉnh Bắc Kạn năm 2024 (vòng 1) và hướng dẫn các thủ tục phúc khảo
- Sáng kiến “Kiểm sát việc giải quyết các vụ việc kinh doanh thương mại – Thực trạng và giải pháp kiến nghị” và hiệu quả áp dụng trong thực tiễn
- Công khai sô liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán Ngân sách Qúy III năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
- Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện KSND cấp cao tại Hà Nội
- Danh sách kèm theo thông báo lịch thi tuyển công chức 2024
- Thông báo lịch thi tuyển công chức
- Thông báo về việc bổ sung chỉ tiêu công chức nghiệp vụ Kiểm sát tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
- Công khai số liệu cắt giảm 5% dụ toán chi thường xuyên năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
- Danh sách kèm theo thông báo số 367/TB-VC1 ngày 23 tháng9 năm 2024
- Thông báo về việc thực hiện công tác sơ tuyển đối với các thí sinh đăng ký dự thi công chức tại VKSND tối cao, VKSND cấp cao tại Hà Nội năm 2024
- Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách quý II năm 2024 của VKSND cấp cao tại Hà Nội
- Công khai quyết toán ngân sách nhà nước năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
- Thông báo về việc bổ sung chỉ tiêu và điều kiện, tiêu chuẩn đăng ký thi tuyển công chức công nghệ thông tin về an ninh, an toàn mạng năm 2024
- Thông báo tuyển dụng công chức năm 2024
- Thông báo bán thanh lý tài sản nhà nước
- Công bố công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán Ngân sách quý I năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
- Công khai thuyết minh tình hình thực hiện dự toán NSNN quý I năm 2024
- Công bố công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán Ngân sách Qúy I năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội