Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp

2/12/2019 | 0 | 0

Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa Nguyên đơn - Ngân hàng A với Bị đơn -Trường Mầm non tư thục BM (do bà Trương Thị Kim D - Chủ tịch Hội đồng quản trị đại diện) và Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - ông Mai Huy T, bà Trương Thị Hải Y, ông Hàn Liên H và bà Vũ Thị Nguyệt T, nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm có thiếu sót trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và kết luận trong bản án chưa phù hợp với quy định của pháp luật, cần thông báo để rút kinh nghiệm.


          Tóm tắt nội dung vụ án: Ngân hàng A căn cứ Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 04/9/2011 của Trường Mầm non tư thục BM (Trường BM) để ký Hợp đồng tín dụng số 11/0077 ngày 27/9/2011 với bà Trương Thị Kim D (Chủ tịch Hội đồng quản trị Trường Mầm non tư thục BM), nội dung: Ngân hàng cho Trường BM vay 19.000.000.000 đồng để bổ sung vốn xây dựng Trường, thời hạn vay 48 tháng, có quy định về lãi suất trong hạn và lãi suất trong hạn.


Thực hiện Hợp đồng trên, Ngân hàng đã giải ngân cho Trường BM vay 10.500.000.000 đồng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay là: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đứng tên ông Hàn Liên H và bà Vũ Thị Nguyệt T, theo Hợp đồng thế chấp 11/0076 ngày 27/9/2011; Giấy cam kết nhận nợ của bà Trương Thị Kim D; Giấy cam kết của ông Mai Huy T và Giấy cam kết của bà Trương Thị Hải Y về việc nhận nợ và cam kết trả nợ bằng tài sản của Trường Trung học phổ thông dân lập PN (Trường PN) và bằng tài sản của bà Y.


Do Trường BM vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 19/6/2013 Ngân hàng A đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện HM (nơi Trường BM có trụ sở), yêu cầu Trường BM trả số tiền nợ gốc 9.970.000.000 đồng, lãi trong hạn 2.297.713.830 đồng, lãi quá hạn 99.000.000 đồng và phạt chậm trả lãi 29.563.000 đồng. Nếu Trường BM không trả được nợ thì Ngân hàng có quyền đề nghị phát mại tài sản bảo đảm và đề nghị các bên có liên quan thực hiện trả nợ theo các giấy cam kết nhận nợ.


Quá trình giải quyết vụ án, Bà Trương Thị Kim D trình bày: Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 04/9/2011 của Trường BM là không đúng các thành viên, do bà Trương Thị Hải Y dàn dựng; toàn bộ hồ sơ vay vốn do bà Y lập, bà D chỉ đứng tên ký; bà D không đủ tư cách được Hội đồng quản trị Trường BM ủy quyền khi ký Hợp đồng vay tiền Ngân hàng mà bà D vay với tư cách cá nhân;


Các thành viên Hội đồng quản trị Trường BM cũng trình bày họ không biết và không ký vào Biên bản họp Hội đồng quản trị ngày 04/9/2011 để ủy quyền cho bà Trương Thị Kim D vay vốn Ngân hàng;

Ông Hàn Liên H và bà Vũ Thị Nguyệt T trình bày: Giữa ông bà và bà Trương Thị Hải Y có ký kết thỏa thuận đổi nhà theo đề nghị của bà Y nên ông bà đã dùng Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông bà (nêu trên) thế chấp để bảo lãnh cho Trường BM vay vốn tại Ngân hàng A. Nay bà Y không hoàn thành nghĩa vụ đổi nhà và có dấu hiệu lừa đảo nên ông bà đề nghị Ngân hàng giải chấp và trả lại cho ông bà Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã thế chấp;


Bà Trương Thị Hải Y và ông Mai Văn T đồng ý dùng tài sản của Trường PN để trả nợ cho Ngân hàng A và đề nghị giải chấp tài sản thế chấp của ông Hàn Liên H và bà Vũ Thị Nguyệt T.

Thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” trên, bà Trương Thị Kim D và bà Trương Thị Hải Y, ông Mai Huy T đang bị tạm giam để điều tra về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh H.


          Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2014/KDTM-ST ngày 21/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện HM quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng A. Buộc Trương Thị Kim D thanh toán trả cho Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng số 11/0077 ngày 27/9/2011 là 15.152.446.892 đồng (bao gồm nợ gốc; lãi trong hạn 2.423.237.292 đồng, lãi quá hạn 2.712.237.292 đồng và phạt chậm trả lãi 46.376.016 đồng. Trường hợp bà D không thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Trường PN thực hiện nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản của Trường PN theo giấy cam kết trả nợ do ông Mai Huy T thực hiện ngày 27/9/2011; có quyền yêu cầu bà Trương Thị Hải Y thực hiện nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản cá nhân của bà Y theo giấy cam kết nhận trả nợ giữa Ngân hàng A với bà D và bà Y ngày 27/9/2011;


 Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về việc phát mại tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông Hàn Liên H và bà Vũ Thị Nguyệt T. Ngân hàng phải làm thủ tục giải tỏa tài sản thế chấp và trả lại giấy tờ cho ông H, bà T.


Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 86/2017/KDTM-PT ngày 20/11/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh H quyết định: Hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2014/KDTM-ST ngày 21/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện HM về phần hợp đồng tín dụng, giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân huyện HM để giải quyết lại tranh chấp hợp đồng tín dụng. Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm về phần xử lý tài sản bảo đảm.


Do Ngân hàng A có Đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, ngày 17/11/2017, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Quyết định kháng nghị số 22A/2017/KN-DS, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên.


           Tại Quyết định giám đốc thẩm số 12/2018/KDTM-GĐT ngày 19/7/2018, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.


Vi phạm cần rút kinh nghiệm: Bản án sơ thẩm tuyên buộc bà Trương Thị Kim D phải chịu trách nhiệm cá nhân về khoản tiền vay Ngân hàng A theo Hợp đồng tín dụng nêu trên nhưng không xác định bà D tham gia tố tụng với tư cách Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án (bà D chỉ được Tòa án cấp sơ thẩm xác định tham gia tố tụng với tư cách là Người đại diện của Trường BM). Ngoài ra, Bản án sơ thẩm nhận định Hợp đồng thế chấp ký giữa ông Hàn Liên H bà Vũ Thị Nguyệt T và Ngân hàng A để bảo lãnh cho Trường BM vay vốn bị vô hiệu, đã tuyên xử không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về việc phát mại tài sản thế chấp (là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mang tên ông Hàn Liên H và bà Vũ Thị Nguyệt T) nhưng không tuyên hủy Hợp đồng thế chấp này là thiếu sót.


Bản án phúc thẩm tuyên hủy một phần Bản án sơ thẩm - phần hợp đồng tín dụng để giải quyết lại nhưng đồng thời lại tuyên giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm về phần xử lý tài sản bảo đảm là không đúng, bởi lẽ: Khi chưa có kết luận chính thức về Hợp đồng tín dụng vô hiệu hay không vô hiệu, trách nhiệm và nghĩa vụ tài sản của các bên liên quan như thế nào đã quyết định xử lý tài sản bảo đảm của Hợp đồng tín dụng này là thiếu căn cứ. Đồng thời, trong vụ án này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập về đề nghị tuyên bố Hợp đồng thế chấp nêu trên vô hiệu, đúng ra Tòa án phải thụ lý giải quyết trong cùng vụ án cả quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp; phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu (nếu có).


Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã bị khởi tố của bà D, bà Y, ông T có liên quan gì đến việc ký kết Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp nêu trên hay không. Nếu có liên quan thì phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” để chờ kết quả xử lý về hình sự./.

 

Bài viết: Tố Nguyên-Viện 4 VC1

Thông báo khác:

Trang: 1/2
Chuyển đến: