Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”

2/12/2019 | 0 | 0

Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án kinh doanh thương mại: “Tranh chấp hợp đồng xây dựng” giữa Nguyên đơn: Công ty TNHH J, với Bị đơn: Công ty TNHH Đầu tư T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:Công ty TNHH Đá quý V, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy bản án sơ thẩm và phúc thẩm có vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án, cần thông báo để rút kinh nghiệm.


          Tóm tắt nội dung vụ án: Tại Đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn- Công ty TNHH J trình bày: Ngày 03/09/2013, Công ty TNHH J (viết tắt là Công ty J) Công ty TNHH Đầu tư T (viết tắt là Công ty T) ký Hợp đồng thầu phụ TAC-JUNA/03092013 về việc thi công Công trình dự án Nhà máy đá quý V (do Công ty TNHH Đá quý V là Chủ đầu tư), theo thiết kế mà Công ty T chuyển cho Công ty J. Thời gian thực hiện dự kiến khoảng 5 tháng (khởi công từ ngày 03/9/2013, hoàn công đến 31/01/2014). Sau đó do Chủ đầu tư thay đổi diện tích đất xây dựng, đến ngày 06/12/2013 Dự án mới được cấp phép xây dựng và khởi công nên ngày hết hạn hợp đồng xác định là 06/5/2014. Giá trị hợp đồng là 25.410.000.000 đồng (theo đơn giá cố định cụ thể và đã bao gồm cả VAT);

Trong quá trình thi công, Ch đầu tư thay đổi thiết kế nhiều ln dẫn đến chi phí phát sinh (việc thay đi thiết kế được Tng giám đốc Công ty T xác nhận qua email). Do ng ty T thanh toán chậm so với khi lượng công việc đã thi công nên Công ty J đã tạm dừng thi công. Ngày 16/7/2014, Công ty T gửi văn bản thông báo v việc chm dứt hợp đng trước thời hn và đ nghị Công ty J phải rời khi công trường. Công ty T không nghiệm thu khối lượng công việc Công ty J đã thi công làm cơ sở để quyết toán mà ký ngay hợp đồng với nhà thầu khác để thay cho Công ty J tiếp tục thi công Dự án;


          Ngày 25/8/2014, Công ty T gửi công văn cho Công ty J khẳng định nội dung bản Chứng thư thẩm định giá ngày 20/6/2014 của Công ty cổ phần định giá và bán đấu giá tài sản Nhân Thành do Chủ đầu tư cung cấp là cơ sở chính cùng các điều khoản của Hợp đồng để làm căn cứ quyết toán giá trị hợp đồng. Tuy nhiên, một s hạng mục mà Công ty J đã thi công nhưng không được nêu trong Chứng thư thẩm định và giá trong Chng thư thm đnh thp hơn so với giá vt liệu mà Công ty J thực tế đã làm. Hiện nay Công ty T mới thanh toán cho Công ty J số tiền 16.800.000.000 đồng. Công ty J khởi kiện yêu cầu Công ty T thanh toán 9.683.600.000 đồng còn lại phát sinh từ Hợp đồng thầu phụ nêu trên.


Bị đơn - Công ty T xác nhận việc ký kết hợp đồng như Nguyên đơn trình bày. Công ty T không đồng ý với yêu cầu của Công ty J và cho rằng Chứng thư thẩm định giá ngày 20/6/2014 do Chủ đầu tư cung cấp là căn cứ để giải quyết tranh chấp giữa hai bên. Theo Chứng thư thẩm định này thì Công ty T đã thanh toán thừa cho Công ty J. Công ty T có đơn phản tố cho rằng Công trình bị chậm trễ theo hợp đồng do việc bên Công ty J dừng thi công nên yêu cầu Công ty J phải bồi thường tổn thất và thiệt hại do dừng thi công và phải thanh toán trả lại khoản tiền Công ty T đã trả thừa theo Chứng thư thẩm định giá, tổng cộng là 1.040.192.408 đồng.


          Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan -Công ty TNHH Đá quý V trình bày: Quá trình thi công theo thỏa thuận trong hợp đồng chính giữa Chủ đầu tư và Công ty T thì cơ bản không thay đổi gì về thiết kế. Khối lượng cụ thể Công ty J đã thi công thế nào thì Công ty TNHH Đá quý V không rõ nhưng số tiền cụ thể đã được xác định trong Chứng thư thm định giá.


Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2017/KDTM-ST ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh H đã tuyên xử: Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của Công ty J đối với Công ty T, buộc Công ty T phải thanh toán cho Công ty J số tiền là 583.700.000 VNĐ; không chp nhận yêu cầu phản tố của Công ty J

Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 55/2018/KDTM-PT ngày 03/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh H đã quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo và 1 phần yêu cầu khởi kiện của Công ty J đối với Công ty T, sửa một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2017/KDTM-ST ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện N, buộc Công ty T phải thanh toán cho Công ty J số tiền là 5.500.000.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu phản tố và yêu cầu kháng cáo của Công ty T đối với Công ty J…


Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 15/6/2018, Công ty T có đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 26/11/2018, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/2018/KN-KDTM ngày 26/11/2018 đối với Bản án phúc thẩm nêu trên. Ngày 25/02/2019, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử giám đốc thẩm, quyết định: Hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh H xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.


         Vấn đề cần rút kinh nghiệm: Hợp đồng thầu phụ số TAC-JUNA/03092013 là hợp đồng xây dựng theo đơn giá cố định. Tại Điều 5 và Điều 11 của Hợp đồng quy định về tổng giá trị hợp đồng là 25.410.000.000 đồng (đã bao gồm VAT) và giá trị hợp đồng đối với các danh mục hàng hóa, vật tư được ký kết sẽ không thay đồi do biến động vật giá cho đến khi kết thúc hoàn công. Công ty J và Công ty T chỉ tranh chấp về khối lượng đã thi công và số tiền phải thanh toán.


Công ty J thừa nhận Chứng thư thm định giá ngày 20/6/2014 của Công ty cổ phần định giá và bán đấu giá tài sản Nhân Thành do Chủ đầu tư cung cấp là căn cứ để xác định khối lượng công việc hoàn thành nhưng cho rằng một số hạng mục phát sinh Công ty J đã thi công nhưng không có trong Chứng thư thẩm định và tính giá trị thấp hơn thực tế. Song quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, Công ty J không yêu cầu thẩm định lại nên Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng Chứng thư thẩm định này làm căn cứ để giải quyết vụ án là đúng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lấy toàn bộ kết quả của Chứng thư thẩm định giá trị công trình xây dựng dở dang trên đất do Công ty J thi công có tổng giá trị sau thuế là 17.383.723.365 đồng (bao gồm cả chi phí thiết kế, cấp phép, chiết khấu có giá trị sau thuế) để buộc Công ty T phải thanh toán cho Công ty J là thiếu sót, vì Công ty J chỉ thực hiện riêng phần thi công mà tổng chi phí xây dựng do Công ty J thi công theo Chứng thư thẩm định giá chỉ có giá trị là 14.949.954.850 đồng (giá trị sau thuế là 16.444.950.335 đồng), còn chi phí thiết kế, cấp phép, chiết khấu có giá trị sau thuế 938.749.665 đồng Công ty T không phải thanh toán cho Công ty J.


Tòa án cấp phúc thẩm nhận định việc thanh toán gia hai bên thực hiện theo Hợp đng thầu phụ s TAC-JUNA/03092013 ngày 03/09/2013 là theo hóa đơn giá trị gia tăng thực tế đã xuất, do Hợp đồng thầu phụ ký gia hai bên không tha thuận về điều khoản thanh toán nên cần buộc Công ty T thanh toán cho Công ty J số tiền còn thiếu theo Hóa đơn GTGT số 0000050 ngày 20/3/2014 (hóa đơn còn lại chưa thanh toán) tương ứng 5.500.000.000 đồng.


Tuy nhiên, tại Điu 6 của Hợp đồng thầu phụ quy định về phương thức thanh toán và thời đim thanh toán chi phí cho phần công việc đã hoàn thành sau khi Công ty T, Công ty J Chủ đầu tư kiểm tra tiến độ thi công tại công trường. Mặt khác, tại khoản 5 Điều 18 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ quy định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng thì: Đối với hợp đng theo đơn giá cố định được thực hiện trên cơ s khi lượng thực tế hoàn thành (k c khối lượng tăng hoặc giảm nếu có) được nghiệm thu và đơn giá trong hp đồng theo đúng các thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy, mặc dù trước đó Công ty T đã thanh toán cho Công ty J số tiền 16.800.000.000 đồng theo các hóa đơn: Hóa đơn GTGT số 0000032 ngày 30/9/2013, Hóa đơn GTGT số 0000043 ngày 20/12/2013, Hóa đơn GTGT số 0000044 ngày 31/12/2013, Hóa đơn GTGT số 0000046 ngày 24/01/2014 Hóa đơn GTGT số 0000047 ngày 15/02/2014 song là thanh toán khi chưa có biên bản nghiệm thu từng phần công việc đã hoàn thành (theo Công ty TAC thì đó mới chỉ là phần tiền tạm ứng cho Công ty J, chưa phải là tiền đã thanh toán). Riêng đối với Hóa đơn GTGT số 0000050 ngày 20/3/2014 tương ứng số tiền 5.500.000.000 đồng (đã bao gồm 10% VAT) phía Công ty T chưa thanh toán cho Công ty J vì các bên có tranh chấp về phần thi công công trình. Do vậy, Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty TAC thanh toán cho Công ty J số tiền 5.500.000.000 đồng theo Hóa đơn còn lại mà không trên cơ sở khi lượng thi công thực tế đã được thẩm định theo chứng thư thẩm định nêu trên là không đúng.


Do Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm nêu trên có vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, nên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã căn cứ điểm a khoản 1 Điều 337, khoản 3 Điều 343 và khoản 2 Điều 345 Bộ luât tố tụng dân sự năm 2015, quyết định: Hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh H xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật./.

 

Bài viết: Trường Hạnh- Viện 4 VC1

Thông báo khác:

Trang: 1/2
Chuyển đến: