Thông báo rút kinh nghiệm những vấn đề rút ra từ việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại

17/10/2019 | 0 | 0

Thông qua công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại về việc: “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ lắp đặt của Tòa án nhân dân tỉnh HN, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Thông báo số 40/TB-VC1-KDTM ngày 26/9/2019, rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và áp dụng thủ tục tố tụng trong việc giải quyết vụ án. Xin nêu ra để bạn đọc cùng tham khảo.

*Nội dung vụ án:

Ngày 02/5/2014, Công ty TNHH  A  ký hợp đồng lắp đặt phòng sạch cho nhà máy của Công ty cổ phần B. Theo đó, Công ty cổ phần B có trách nhiệm thanh toán tổng số tiền là 7.409.000.000đ.

Ngày 05/6/2014, Công ty TNHH A và Công ty cổ phần B ký Biên bản thanh lý hợp đồng. Ngày 07/6/2014, đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần B do ông Lee là đại diện theo pháp luật ký xác nhận công nợ chi phí thi công phòng sạch số tiền là 7.409.000.000đ. Ngày 19/7/2014 hai bên ký Biên bản nghiệm thu công việc, xác nhận công trình lắp đặt đạt yêu cầu của hợp đồng.

Do Công ty cổ phần B chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên Công ty TNHH A khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Công ty cổ phần B thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền 7.409.000.000đ.

Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2016/KDTM-ST ngày 30/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh HN quyết định:

Căn cứ Điều 30; điểm a khoản 1 Điều 37; Điều 39; Điều 144; khoản 1 Điều 147; Điều 227; Điều 471 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 74; Điều 75; Điều 78; Điều 85 Luật thương mại; Điều 121; Điều 122; Điều 124; Điều 401; Điều 402; Điều 405; Điều 518; Điều 519; Điều 520; Điều 521; Điều 522; Điều 524 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/2/2009 của UBTVQH khóa 12; Thông tư liên tịch số 01 /TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản. Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH A: Buộc Công ty cổ phần B thanh toán cho Công ty TNHH A 7.409.000.000đ theo hợp đồng.

2. Không chấp nhận các yêu cầu khác của bị đơn.

Sau xét xử sơ thẩm, Công ty TNHH B kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm.

Công ty TNHH A kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bổ sung kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật thì bị đơn phải chịu lãi suất đối với số tiền phải thi hành án.

Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 522/2018/KDTM-PT ngày 07/11/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội căn cứ Điều 308; Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quyết định:

Chấp nhận kháng cáo của bị đơn là Công ty TNHH B, hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân tỉnh HN để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

* Những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ vụ án này

- Căn cứ Điều lệ của Công ty D tại Hàn Quốc thì ông Lee là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH B nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Lee vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án và không ghi lời khai của ông Lee để làm rõ ông Lee có được Hội đồng quản trị Công ty TNHH B chấp thuận cho kí hợp đồng lắp đặt phòng sạch với Công ty TNHH A hay không (vì bị đơn - Công ty TNHH B đang cho rằng ông Lee kí hợp đồng lắp đặt phòng sạch ngày 02/5/2014 và ký xác nhận công nợ số tiền 7.409.000.000đ là vượt quá thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 120 Luật Doanh nghiệp năm 2005); cấp sơ thẩm cũng không làm rõ bản xác nhận công nợ và giám định chữ ký của ông Lee là hợp pháp hay không, trong khi ở cấp sơ thẩm, đại diện của bị đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chữ ký của ông Lee vì nghi ngờ có sự giả mạo. Những vi phạm này là nghiêm trọng và ảnh hưởng đến việc xác định bản chất khách quan của vụ án.

- Có việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ tố tụng giữa Công ty TNHH B và Công ty TNHH C song Tòa án không lấy lời khai, không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho bị đơn là Công ty TNHH C là vi phạm thủ tục tố tụng.

- Việc lắp đặt phòng sạch tại nhà máy của Công ty TNHH B được ký kết bởi nhiều bản hợp đồng: Hợp đồng khoán thi công phòng sạch ngày 01/8/2013 giữa Công ty cổ phần Digitech Systems với Công ty cổ phần A; Hợp đồng ký giữa Công ty A với Công ty TNHH B ngày 02/5/2014: Hợp đồng ký giữa Công ty TNHH A với Công ty B ngày 09/09/2013; Hợp đồng ký giữa Công ty TNHH A với Công ty Samkyoung ngày 21/7/2014.

- Cùng một nội dung lắp đặt phòng sạch nhưng có nhiều bản hợp đồng ký ở các thời điểm khác nhau, số tiền trong hợp đồng khác nhau, chủ thể ký hợp đồng cũng khác nhau…, nhiều nội dung mâu thuẫn chưa được cấp sơ thẩm xác minh làm rõ để xác định hợp đồng nào là hợp pháp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện của bị đơn trình bày: Thực chất chỉ có Hợp đồng giữa hai công ty mẹ ký với nhau tại Hàn Quốc là hợp pháp (Hợp đồng ngày 01/8/2013) và đã thực hiện xong. Hợp đồng ngày 02/5/2014 là giả tạo.

Người đại diện do nguyên đơn ủy quyền cũng thừa nhận Hợp đng ngày 02/5/2014 được xác lập sau khi đã hoàn thành công việc lp đặt phòng sạch; thừa nhn có việc nguyên đơn - Công ty TNHH A lập hp đng thuê nhân công giả để làm tài liệu hp thức thanh toán; thừa nhận ngày 21/7/2014, Công ty Samkyoung ký Hp đồng thuê Công ty TNHH A lp đặt phòng sạch và Công ty Samkyoung đã thanh toán thực tế là 7.705.940.580đ. Hiện nay Công ty Samkyoung vẫn đang thuê phòng sạch của Công ty TNHH B đ sản xut. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Công ty TNHH Samkyoung cũng có mặt, xuất trình bản hợp đồng thuê nhà xưởng và yêu cầu được tham gia tố tụng. Người đại diện cho nguyên đơn thừa nhận đã nhận của Công ty TNHH Samkyoung 7.409.000.000đ và có quan điểm xin rút đơn khởi kiện, sau lại thay đổi không rút đơn và trình bày có việc làm giả tài liệu, hồ sơ. Tuy nhiên những tình tiết mới này chưa được kiểm chứng.

Do Bản án sơ thẩm có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và việc thu thập đánh giá chứng cứ chưa khách quan, đầy đủ, trên cơ sở đề nghị của đại diện viện kiểm sát, tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã hủy toàn bộ bản án để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

 

          Tác giả: Hoàng Việt Bách-Viện 3./.

Thông báo khác:

Trang: 1/2
Chuyển đến: