Thông báo rút kinh nghiệm những vấn đề rút ra từ việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại
Thông qua công tác kiểm
sát xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại về việc: “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ lắp đặt” của Tòa án nhân dân tỉnh HN,
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Thông
báo số 40/TB-VC1-KDTM ngày 26/9/2019, rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc thu
thập, đánh giá chứng cứ và áp dụng thủ tục tố tụng trong việc giải quyết vụ án.
Xin nêu ra để bạn đọc cùng tham khảo.
*Nội dung vụ
án:
Ngày
02/5/2014, Công ty TNHH A ký hợp đồng lắp đặt phòng sạch cho nhà máy của
Công ty cổ phần B. Theo đó, Công ty cổ phần B có trách nhiệm thanh toán tổng số
tiền là 7.409.000.000đ.
Ngày
05/6/2014, Công ty TNHH A và Công ty cổ phần B ký Biên bản thanh lý hợp đồng. Ngày
07/6/2014, đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần B do ông Lee là đại diện
theo pháp luật ký xác nhận công nợ chi phí thi công phòng sạch số tiền là
7.409.000.000đ. Ngày 19/7/2014 hai bên ký Biên bản nghiệm thu công việc, xác
nhận công trình lắp đặt đạt yêu cầu của hợp đồng.
Do Công
ty cổ phần B chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên Công ty TNHH A khởi kiện đề
nghị Tòa án buộc Công ty cổ phần B thực hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền
7.409.000.000đ.
Bản án kinh doanh thương mại sơ
thẩm số 02/2016/KDTM-ST ngày 30/9/2016 của Tòa án nhân
dân tỉnh HN quyết định:
Căn cứ Điều 30; điểm
a khoản 1 Điều 37; Điều 39; Điều 144; khoản 1 Điều 147; Điều 227; Điều 471 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 74; Điều 75; Điều 78; Điều 85 Luật thương
mại; Điều 121; Điều 122; Điều 124; Điều 401; Điều 402; Điều 405; Điều 518; Điều
519; Điều 520; Điều 521; Điều 522; Điều 524 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2
Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án ngày 27/2/2009 của
UBTVQH khóa 12; Thông tư liên tịch số 01 /TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 19/6/1997 của
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài
chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Công ty TNHH A: Buộc Công ty cổ phần B thanh toán cho Công ty TNHH
A 7.409.000.000đ theo hợp đồng.
2. Không chấp nhận
các yêu cầu khác của bị đơn.
Sau xét xử sơ thẩm,
Công ty TNHH B kháng cáo đề nghị hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Công ty TNHH A kháng
cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bổ sung kể từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật thì bị đơn phải chịu lãi suất đối với số tiền phải thi hành án.
Bản án kinh doanh thương mại phúc
thẩm số 522/2018/KDTM-PT ngày 07/11/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
căn cứ Điều 308; Điều 310 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quyết định:
Chấp nhận kháng cáo
của bị đơn là Công ty TNHH B, hủy toàn bộ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm,
giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân tỉnh HN để giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
* Những vấn đề cần rút kinh nghiệm từ vụ án này
- Căn cứ Điều lệ của Công ty D tại Hàn Quốc thì ông
Lee là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH B nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm không đưa ông Lee vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan trong vụ án và không ghi lời khai của ông Lee để làm rõ ông
Lee có được Hội đồng quản trị Công ty TNHH B chấp thuận cho kí hợp đồng lắp đặt
phòng sạch với Công ty TNHH A hay không (vì bị đơn - Công ty TNHH B đang cho
rằng ông Lee kí hợp đồng lắp đặt phòng sạch ngày 02/5/2014 và ký xác nhận công
nợ số tiền 7.409.000.000đ là vượt quá thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 120
Luật Doanh nghiệp năm 2005); cấp sơ thẩm cũng không làm rõ bản xác nhận công nợ
và giám định chữ ký của ông Lee là hợp pháp hay không, trong khi ở cấp sơ thẩm,
đại diện của bị đơn yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chữ ký của ông Lee vì
nghi ngờ có sự giả mạo. Những vi phạm này là nghiêm trọng và ảnh hưởng đến việc
xác định bản chất khách quan của vụ án.
- Có việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ tố tụng giữa
Công ty TNHH B và Công ty TNHH C song Tòa án không lấy lời khai, không mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho bị đơn là Công ty
TNHH C là vi phạm thủ tục tố tụng.
- Việc lắp đặt phòng sạch tại
nhà máy của Công ty TNHH B được ký kết bởi nhiều bản hợp đồng: Hợp đồng khoán
thi công phòng sạch ngày 01/8/2013 giữa Công ty cổ phần Digitech Systems với
Công ty cổ phần A; Hợp đồng ký giữa Công ty A với Công ty TNHH B ngày
02/5/2014: Hợp đồng ký giữa Công ty TNHH A với Công ty B ngày 09/09/2013; Hợp
đồng ký giữa Công ty TNHH A với Công ty Samkyoung ngày 21/7/2014.
- Cùng một nội dung lắp đặt phòng sạch nhưng có nhiều bản
hợp đồng ký ở các thời điểm khác nhau, số tiền trong hợp đồng khác nhau, chủ thể
ký hợp đồng cũng khác nhau…, nhiều nội dung mâu thuẫn chưa được cấp sơ thẩm xác
minh làm rõ để xác định hợp đồng nào là hợp pháp.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại
diện của bị đơn trình bày: Thực chất chỉ có Hợp đồng
giữa hai công ty mẹ ký với nhau tại Hàn Quốc là hợp pháp (Hợp đồng ngày
01/8/2013)
và đã thực hiện xong. Hợp đồng ngày 02/5/2014 là giả tạo.
Người đại diện do nguyên đơn ủy quyền cũng thừa nhận Hợp đồng ngày 02/5/2014 được
xác lập sau khi đã hoàn thành
công việc lắp
đặt phòng
sạch; thừa
nhận
có việc nguyên đơn - Công ty TNHH A lập
hợp
đồng
thuê nhân công giả để làm tài liệu hợp thức thanh toán; thừa nhận ngày 21/7/2014, Công ty Samkyoung ký Hợp
đồng thuê Công ty TNHH A lắp đặt phòng sạch và Công ty Samkyoung đã thanh toán thực
tế là 7.705.940.580đ. Hiện
nay Công ty Samkyoung vẫn đang thuê phòng sạch của Công ty TNHH B để sản
xuất. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Công ty TNHH
Samkyoung cũng có mặt, xuất trình bản hợp đồng thuê nhà xưởng và yêu cầu được
tham gia tố tụng. Người đại diện cho nguyên đơn thừa nhận đã nhận của Công ty
TNHH Samkyoung 7.409.000.000đ và có quan điểm xin rút đơn khởi kiện, sau lại
thay đổi không rút đơn và trình bày có việc làm giả tài liệu, hồ sơ. Tuy nhiên
những tình tiết mới này chưa được kiểm chứng.
Do Bản án sơ thẩm có
những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và việc thu thập đánh giá chứng cứ
chưa khách quan, đầy đủ, trên cơ sở đề nghị của đại diện viện kiểm sát, tại
phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã hủy toàn bộ bản án để giải quyết lại theo
quy định của pháp luật.
Tác
giả: Hoàng Việt Bách-Viện 3./.
Thông báo khác:
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội công khai dự toán ngân sách năm 2024
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội công khai tình hình sử dụng kinh phí tiết kiệm năm 2023
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội công khai tình hình quản lý, sử dụng tài sản công
- Kế hoạch lựa chọn và tiếp nhận công chức từ các đơn vị trong ngành KSND về VKSND cấp cao tại Hà Nội năm 2024
- Thông báo về việc tiếp nhận công chức có chức danh tư pháp về Viện KSND cấp cao tại Hà Nội
- Kế hoạch lựa chọn và tiếp nhận công chức từ viện kiểm sát địa phương về công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
- Thông báo về việc tiếp tục công tác tiếp công dân
- Thông báo rút kinh nghiệm về xác định tội danh trong vụ án hình sự có hành vi chiếm đoạt tài sản
- Thông báo rút kinh nghiệm về áp dụng hình phạt trong giải quyết vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”
- Thông báo về việc tạm dừng tiếp công dân
- Kinh nghiệm rút ra từ một Quyết định chỉ giải quyết vụ án hành chính thiếu căn cứ
- Thông báo rút kinh nghiệm về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản”
- Thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
- Thông báo về việc tiếp tục tạm dừng tiếp công dân
- Thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp đòi quyền sử dụng đất
- Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp
- Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”
- Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc ban hành Quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản
- Thông báo rút kinh nghiệm về việc ban hành Quyết định mở thủ tục phá sản
- Thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án