Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, Đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Khái quát thân thế và sự nghiệp cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh
Phần I. KHÁI QUÁT THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1. Thân thế và thuở thiếu thời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường cứu nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn
Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy
tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước,
tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.
Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung
sống trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của gia đình, đặc biệt là ông bà
ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm
1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi
lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số
nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào
Huế, thời gian đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học
Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910
vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường Dục Thanh. Tháng
02/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.
2. Quá trình hoạt động cách mạng
2.1. Giai
đoạn 1911 - 1920
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho
yêu nước, ở một làng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng
kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy
bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước. Ngày 05/6/1911 với tên gọi mới
là Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà
Rồng đi Mác xây (Pháp).
Từ năm 1912 -1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một
số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều
hoạt động, cuối năm 1917 Người mới trở lại nước Pháp.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng
Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp
gửi bản yêu sách gồm 08 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế
quốc họp ở Véc-xây (Pháp), đòi chính phủ các nước họp Hội nghị phải
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận
cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội
Đảng Xã hội Pháp. Tại đây Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
2.2. Giai
đoạn 1921 - 1930
Từ năm 1921 đến tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc
tham gia nhiều hoạt động: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại
hội lần thứ I và lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ
Phôbua, làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ...
Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và
đến thành phố Xanhpêtécbua (Liên Xô) ngày 30/6/1923.
Từ tháng 7/1923 đến tháng 10/1924, Nguyễn Ái
Quốc tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát
triển lý luận về cách mạng thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân;
tham dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên;
tiếp tục viết nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án
chế độ thực dân Pháp; học tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội
lần thứ V Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế
Cộng sản.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về
Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên, trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (1925),
tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về
Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài
giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Cách mệnh,
được xuất bản vào năm 1927.
Hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi
Liên Xô, sau đó đi Đức (tháng 11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự
cuộc họp của Đại hội đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại
Đức, đi Thụy Sỹ, sang Italia. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan),
rồi trở lại Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ ngày 06/01 đến ngày 07/2/1930 tại Cửu
Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3. Giai
đoạn 1930 - 1945
Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước
ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong
nước. Tháng 6/1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm
1932, Người được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin.
Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An
(Trung Quốc) làm việc tại Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ
chức Đảng, chuẩn bị về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 28/01/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc,
Nguyễn Ái Quốc trở về nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường
Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).
Từ ngày 10
đến ngày 19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII
của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Khuổi Nặm (Pắc
Bó, Cao Bằng). Hội nghị đã xác định đường lối đấu tranh giải
phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam Độc
lập, tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người
đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế
chống xâm lược sang Trung Quốc bắt liên lạc với Đồng minh, cùng phối hợp
hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính
quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh
Quảng Tây (Trung Quốc). Trong thời gian bị giam giữ, Người viết cuốn Nhật
ký trong tù. Tháng 9/1943, Người được thả tự do.
Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao
Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao
Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị
toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại
hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm
thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng
lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà
Nội, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
2.4. Giai
đoạn 1945 - 1954
Những năm 1945 - 1946, Người cùng Trung ương
Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đối
phó với thù trong, giặc ngoài, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế “ngàn
cân treo sợi tóc”; tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông
qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu
Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 02/3/1946, Chính phủ Liên hiệp kháng
chiến được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngày 03/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được
Quốc hội giao nhiệm vụ thành lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm
Thủ tướng Chính phủ (từ tháng 11/1946 - đến tháng 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao.
Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được
bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành
thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh
cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu, đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.5. Giai
đoạn 1954 - 1969
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ
được ký kết. Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải
phóng. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, sau 02 năm sẽ tổ chức Tổng
tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam
từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy ngụy quyền,
ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào cuộc chiến đấu chống
xâm lược mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp
tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tháng 10 /1956, tại Hội nghị Trung ương Đảng
mở rộng lần thứ X (khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức
Chủ tịch Đảng.
Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Người
được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc
hội khóa II, khóa III bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước và công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi;
đặt nền móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các
dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt
Nam) với các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời
là tổn thất vô cùng lớn lao. Đồng bào và chiến sĩ cả nước ta thương nhớ
Người khôn xiết. Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tình thương yêu cho
toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam và tình đoàn kết thân ái với nhân dân
tiến bộ trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta
và vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới. Người đã trải qua một cuộc
đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng
trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch
Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học
tập và noi theo.
Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.
>>> Tiếp phần II - Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ thiên tài của đảng và nhân dân, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Tin liên quan:
- Chuyên đề năm 2022 "Tăng cường tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của các cơ quan Trung ương"
- Chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh toàn khóa : “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng
- Ngày 07/4/2022, Đảng ủy VKSND tối cao ban hành Công văn số 377-CV/ĐU về việc phổ biến tài liệu Hội nghị thông tin chuyên đề Quý I/2022
- Hướng tới kỷ niệm 130 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh
- Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ thiên tài của đảng và nhân dân, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân QT
- Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của chủ tịch Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền
- Noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh cần thật cụ thể, thực chất và thiết thực
- Tư tưởng vì con người trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Tự hào với phù hiệu của Ngành trên ve áo
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề kiểm soát quyền lực đối với cán bộ, đảng viên - giá trị hiện nay
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngành Kiểm sát nhân dân