Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”
Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ
án kinh doanh thương mại: “Tranh chấp hợp
đồng xây dựng” giữa Nguyên đơn: Công ty TNHH J, với Bị đơn: Công ty TNHH Đầu tư T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:Công
ty TNHH Đá quý V, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nhận thấy bản án sơ
thẩm và phúc thẩm có vi phạm trong việc
đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án, cần thông báo để
rút kinh nghiệm.
Tóm
tắt nội dung vụ án:
Tại Đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, Nguyên
đơn- Công ty TNHH J trình bày: Ngày 03/09/2013, Công
ty TNHH J (viết tắt là Công
ty J) và Công
ty TNHH Đầu tư T (viết tắt là Công
ty T) ký Hợp đồng thầu phụ TAC-JUNA/03092013 về
việc thi công Công trình dự
án Nhà máy đá quý V (do Công ty TNHH Đá quý V
là Chủ đầu tư), theo thiết kế mà Công ty T chuyển cho Công ty J. Thời gian thực hiện dự kiến khoảng 5 tháng
(khởi công từ ngày 03/9/2013, hoàn công đến 31/01/2014). Sau đó do Chủ đầu tư
thay đổi diện tích đất xây dựng, đến ngày 06/12/2013 Dự án mới được cấp phép
xây dựng và khởi công nên ngày hết hạn hợp đồng xác định là 06/5/2014. Giá trị
hợp đồng là 25.410.000.000 đồng (theo đơn giá cố định cụ thể và đã bao gồm cả VAT);
Trong quá trình thi công, Chủ đầu tư thay đổi
thiết kế nhiều lần dẫn đến chi phí phát sinh (việc thay đổi thiết kế được Tổng giám đốc Công ty T xác
nhận qua
email). Do Công ty T thanh toán chậm so với khối lượng công việc đã thi công nên Công ty J đã
tạm dừng thi công. Ngày 16/7/2014, Công ty T gửi
văn bản thông báo về việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và đề nghị Công ty J phải rời khỏi
công trường. Công ty T không nghiệm thu khối lượng
công việc Công ty J đã thi công làm cơ sở để quyết toán mà ký ngay hợp đồng với
nhà thầu khác để thay cho Công ty J tiếp tục thi công Dự án;
Ngày 25/8/2014, Công ty T gửi công văn
cho Công ty J khẳng định nội dung bản Chứng thư thẩm định giá ngày 20/6/2014 của
Công ty cổ phần định giá và bán đấu giá tài sản Nhân Thành do Chủ đầu tư cung cấp
là cơ sở
chính cùng các điều khoản của Hợp đồng để làm căn cứ quyết toán giá trị hợp đồng. Tuy nhiên, một số hạng mục mà Công ty J đã thi công nhưng không được
nêu trong Chứng thư thẩm định và giá trong Chứng thư thẩm định
thấp hơn so với giá vật liệu mà Công ty J thực tế đã làm. Hiện nay Công ty T mới thanh toán cho Công ty J số tiền 16.800.000.000 đồng.
Công ty J khởi kiện yêu cầu Công ty T thanh toán 9.683.600.000 đồng còn lại
phát sinh từ Hợp đồng thầu phụ nêu trên.
Bị
đơn - Công ty T xác nhận việc ký kết hợp đồng như Nguyên đơn trình bày.
Công ty T không đồng ý với yêu cầu của Công ty J và cho rằng Chứng thư thẩm
định giá ngày 20/6/2014 do Chủ đầu tư cung cấp là căn
cứ để giải quyết tranh chấp giữa hai bên. Theo Chứng thư thẩm định này thì Công
ty T đã thanh toán thừa cho Công ty J. Công ty T có đơn phản tố cho rằng Công trình bị chậm trễ theo hợp
đồng do việc bên Công ty J dừng thi công nên yêu cầu Công ty J phải bồi thường tổn thất và thiệt hại do dừng thi công và phải thanh toán trả lại khoản tiền Công ty T đã
trả thừa
theo Chứng
thư thẩm định giá, tổng cộng là
1.040.192.408 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan -Công ty TNHH Đá quý V trình bày: Quá trình thi công
theo thỏa thuận trong hợp đồng chính giữa Chủ đầu tư và Công ty T thì cơ bản
không thay đổi gì về thiết kế. Khối lượng cụ thể Công ty J đã thi công thế nào
thì Công ty TNHH Đá quý V không rõ nhưng số tiền cụ thể đã được xác định
trong Chứng thư thẩm định giá.
Bản án
kinh doanh thương mại sơ thẩm số 07/2017/KDTM-ST ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện N,
tỉnh H đã tuyên xử: Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của Công ty J đối với Công ty T, buộc Công ty T phải thanh toán cho Công ty J số tiền là 583.700.000 VNĐ; không chấp nhận yêu cầu phản tố của Công
ty J…
Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 55/2018/KDTM-PT
ngày 03/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh H đã quyết định: Chấp nhận 1 phần kháng cáo và 1 phần yêu cầu khởi kiện của
Công ty J đối với Công ty T, sửa một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm
số 07/2017/KDTM-ST ngày 02/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện N, buộc
Công ty T phải thanh toán cho Công ty J số tiền là 5.500.000.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu phản tố và yêu cầu
kháng cáo của Công ty T đối với Công ty J…
Sau khi xét xử phúc
thẩm, ngày 15/6/2018, Công ty T có đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm. Ngày 26/11/2018, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Quyết
định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/2018/KN-KDTM ngày 26/11/2018 đối với Bản án
phúc thẩm nêu trên. Ngày 25/02/2019, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử giám đốc thẩm, quyết định: Hủy toàn bộ Bản án sơ
thẩm và Bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh
H xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Hợp
đồng thầu phụ số TAC-JUNA/03092013 là
hợp đồng xây dựng theo đơn giá cố
định. Tại Điều 5 và Điều 11 của Hợp đồng quy định về tổng giá trị hợp đồng là 25.410.000.000 đồng (đã bao gồm
VAT) và giá trị hợp đồng đối với các danh mục hàng hóa, vật tư được ký kết sẽ
không thay đồi do biến động vật giá cho đến khi kết thúc hoàn công. Công ty J và Công ty T chỉ tranh chấp về khối lượng đã thi công
và số tiền phải thanh toán.
Công ty J thừa nhận Chứng thư thẩm định giá ngày 20/6/2014 của Công ty cổ phần định giá và bán đấu giá tài sản Nhân Thành do Chủ đầu tư cung cấp là căn cứ để xác định khối lượng công việc hoàn thành nhưng cho rằng một số hạng mục phát sinh Công ty J đã thi công
nhưng không có trong Chứng thư thẩm định và tính giá trị thấp hơn thực tế. Song
quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm, Công ty J không yêu cầu thẩm định lại
nên Tòa án cấp sơ thẩm sử dụng Chứng thư thẩm định này làm căn cứ để giải quyết vụ án là
đúng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lấy toàn bộ kết quả của Chứng thư thẩm định
giá trị công trình xây dựng dở dang trên đất do Công ty J thi công có tổng giá trị sau
thuế là 17.383.723.365 đồng (bao gồm cả chi phí thiết kế, cấp phép, chiết khấu
có giá trị sau thuế) để buộc
Công ty T phải thanh toán cho Công ty J là thiếu sót, vì Công ty J chỉ thực hiện riêng phần thi công mà tổng chi phí
xây dựng do Công ty J
thi công theo Chứng thư thẩm định giá chỉ có giá trị
là 14.949.954.850 đồng (giá trị sau thuế là 16.444.950.335 đồng), còn chi
phí thiết kế, cấp phép, chiết khấu có giá trị sau thuế 938.749.665 đồng Công ty
T không phải thanh toán cho Công ty J.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định việc thanh toán giữa hai bên thực hiện theo Hợp đồng thầu phụ số TAC-JUNA/03092013
ngày 03/09/2013
là theo hóa đơn giá trị gia tăng thực tế đã xuất, do Hợp đồng thầu phụ ký giữa hai bên không thỏa thuận về điều khoản thanh toán nên cần buộc
Công ty T thanh toán cho Công ty J số tiền còn thiếu theo Hóa đơn GTGT số 0000050 ngày
20/3/2014 (là hóa đơn còn lại chưa thanh toán) tương ứng
5.500.000.000 đồng.
Tuy nhiên, tại Điều 6 của Hợp đồng thầu phụ có quy định về phương thức thanh toán và
thời điểm thanh
toán chi phí cho phần công việc đã hoàn thành là sau khi Công ty T, Công ty J và Chủ đầu tư kiểm tra tiến độ thi công tại công trường. Mặt khác, tại khoản 5 Điều
18 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 của Chính phủ quy định về hợp đồng trong hoạt động xây dựng thì: Đối
với hợp đồng theo
đơn giá cố định được thực hiện trên cơ sở khối lượng thực tế hoàn thành (kể cả khối lượng tăng hoặc giảm
nếu có) được nghiệm thu và đơn giá trong hợp đồng theo đúng các thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy, mặc dù trước đó Công ty T đã thanh toán cho Công ty J số tiền 16.800.000.000 đồng theo các hóa đơn: Hóa đơn GTGT số 0000032 ngày 30/9/2013, Hóa đơn GTGT số 0000043 ngày 20/12/2013, Hóa đơn GTGT
số 0000044
ngày 31/12/2013, Hóa đơn GTGT số 0000046 ngày 24/01/2014 và Hóa đơn GTGT số 0000047 ngày 15/02/2014 song là thanh
toán khi chưa có biên bản nghiệm thu từng phần công việc đã hoàn thành (theo Công ty TAC thì đó mới chỉ là phần tiền tạm ứng cho Công ty J, chưa phải là
tiền đã thanh toán). Riêng đối với Hóa đơn GTGT số 0000050 ngày 20/3/2014 tương ứng số tiền
5.500.000.000 đồng (đã bao gồm 10% VAT) phía Công ty T chưa thanh toán cho Công ty J vì các bên có tranh chấp về phần thi công công trình. Do vậy,
Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty TAC thanh
toán cho Công ty J số tiền 5.500.000.000
đồng theo Hóa đơn còn lại mà
không trên cơ sở khối lượng thi công thực tế đã được thẩm định theo chứng thư thẩm
định nêu trên là không đúng.
Do Bản án sơ
thẩm và Bản án phúc thẩm nêu trên có vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ và áp dụng
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, nên Ủy ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội đã căn cứ điểm a khoản 1 Điều 337, khoản 3 Điều 343 và khoản 2 Điều 345
Bộ luât tố tụng dân sự năm 2015, quyết định: Hủy toàn
bộ Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm nêu
trên; giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân huyện N, tỉnh H xét xử sơ thẩm lại theo quy
định của pháp luật./.
Bài viết: Trường Hạnh- Viện
4 VC1
Thông báo khác:
-
Thông báo về việc tiếp nhận công chức có chức danh tư pháp về Viện KSND cấp cao tại Hà Nội
-
Kế hoạch lựa chọn và tiếp nhận công chức từ viện kiểm sát địa phương về công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
-
Thông báo về việc tiếp tục công tác tiếp công dân
-
Thông báo rút kinh nghiệm về xác định tội danh trong vụ án hình sự có hành vi chiếm đoạt tài sản
-
Thông báo rút kinh nghiệm về áp dụng hình phạt trong giải quyết vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”
-
Thông báo về việc tạm dừng tiếp công dân
-
Kinh nghiệm rút ra từ một Quyết định chỉ giải quyết vụ án hành chính thiếu căn cứ
-
Thông báo rút kinh nghiệm về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài sản”
-
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
-
Thông báo về việc tiếp tục tạm dừng tiếp công dân
-
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp đòi quyền sử dụng đất
-
Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp
-
Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc ban hành Quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản
-
Thông báo rút kinh nghiệm về việc ban hành Quyết định mở thủ tục phá sản
-
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án
-
Rút kinh nghiệm về vi phạm trong giải quyết vụ án “Tranh chấp Hợp đồng tín dụng”
-
Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng”
-
Thông báo rút kinh nghiệm về vi phạm trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
-
THÔNG BÁO RÚT KINH NGHIỆM Vụ án Lò Văn Q, Trần Quang V phạm tội Đánh bạc xảy ra tại tỉnh S
-
THÔNG BÁO RÚT KINH NGHIỆM Vụ án Bùi Đình X , Bùi Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”