THÔNG BÁO RÚT KINH NGHIỆM Về vi phạm trong giải quyết vụ án “ Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”

11/6/2019 | 0 | 0


Ngày 22/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội ban hành Thông báo số 16/TB-VC1-KDTM, rút kinh nghiệm về vi phạm đã phát hiện thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”. Trang Thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trích đăng để các bạn đọc tham khảo.

Nội dung vụ án                                       

Ngày 26/10/2010, Ban quản lý dự án X ký kết Hợp đồng kinh tế số 145/HĐ-XL với Liên danh nhà thầu (Công ty cổ phần công trình Y- Công ty cổ phần cầu Z ), nội dung: Ban quản lý Dự án X thuê Liên danh nhà thầu thi công gói thầu số 17: Mố 27 và các trụ từ T18 tới T26 - Dự án xây dựng công trình cầu ML - Km 34 + 826, quốc lộ 50. Giá trị Hợp đồng là 87.422.334.000đ không bao gồm chi phí dự phòng. Trong đó Công ty cổ phần Công trình Y chịu trách nhiệm thi công phần khối lượng công trình tương ứng với giá trị 49.084.353.302đ. Thời hạn thi công là 15 tháng kể từ ngày khởi công. Ngoài ra, Hợp đồng kinh tế trên còn quy định về việc tạm ứng, bảo lãnh tạm ứng thanh toán…

Theo Hợp đồng kinh tế trên và theo đề nghị của Công ty cổ phần công trình Y, Ngân hàng Thương mại cổ phần AB (sau đây viết tắt là Ngân hàng) đã phát hành các Thư bảo lãnh và Thư tu chỉnh bảo lãnh tạm ứng với nội dung: Ngân hàng bảo lãnh thanh toán cho một số khoản tiền (cụ thể) mà Công ty Cổ phần Công trình Y tạm ứng từ Ban quản lý dự án X để thực hiện thi công gói thầu 17 theo Hợp đồng kinh tế số 145/HĐ-XLThời hạn bảo lãnh kể từ ngày phát hành Thư bảo lãnh cho đến hết ngày 30/6/2013. Khi yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, Ban quản lý dự án X phải xuất trình cùng với yêu cầu thanh toán bản chính của Thư bảo lãnh và Thư tu chỉnh bảo lãnh mà Ngân hàng đã phát hành.

Tính đến ngày 05/5/2017, khoản tiền Công ty Cổ phần Công trình Y đã tạm ứng để thực hiện Hợp đồng kinh tế số 145/HĐ-XL chưa hoàn trả lại cho Ban quản lý dự án X là 2.311.415.359đ. Ban quản lý dự án X đề nghị Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền gốc và lãi theo cam kết bảo lãnh.

Ngân hàng không đồng ý thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh vì cho rằng trong thời hạn còn hiệu lực của Thư bảo lãnh và Thư tu chỉnh bảo lãnh do Ngân hàng phát hành, Ban quản lý dự án X không có yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và không xuất trình được bản chính của Thư bảo lãnh, Thư tu chỉnh bảo lãnh đã phát hành.

Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm sổ 24/2017/KDTM-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ban quản lý dự án X. Buộc Ngân hàng phải thanh toán cho Ban quản lý dự án X các khoản tiền sau: Tiền bảo lãnh tạm ứng là: 2.311.415.359đ Tiền lãi chậm trả là: 2.499.356.376đ. Tổng cộng là 4.810.771.735đ.

          Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 23/2018/KDTM-PT ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân thành phố H quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 24/2017/KDTM-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Đ.

Ngày 02/4/2018, Ngân hàng có đơn đề nghị xem xét lại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 07/12/2018, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ban hành Kháng nghị giám đốc thẩm số 12/2018/KN-KDTM. Ngày 14/5/2019 Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định: Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm, hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm và sơ thẩm nêu trên để xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

         Theo quy định của pháp luật và trong vụ án cụ thể này, Ngân hàng được phép thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh, trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh tạm ứng thanh toán và nghĩa vụ bảo lãnh đã được quy định cụ thể tại từng Thư bảo lãnh và Thư tu chỉnh thư bảo lãnh tạm ứng do Ngân hàng phát hành, gửi cho Ban quản lý dự án X. Các Thư bảo lãnh và Thư tu chỉnh bảo lãnh do Ngân hàng phát hành là thư bảo lãnh có điều kiện, không hủy ngang với  yêu cầu bắt buộc để được thanh toán tiền bảo lãnh theo nghiệp vụ bảo lãnh tạm ứng của Ngân hàng làYêu cầu bảo lãnh còn trong thời hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh và phải xuất trình cùng bản chính Thư bảo lãnh và bản chính Thư tu chỉnh bảo lãnh.

Ban quản lý dự án X cho rằng: Ngày 28/5/2013 Ban quản lý dự án X đã có Văn bản yêu cầu Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là còn trong thời hạn bảo lãnh. Văn bản này được giao cho Ngân hàng vào ngày 11/6/2013, người nhận là bà Đinh Thị H -Nhân viên văn thư ca Ngân hàng. Số tiền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tại thời điểm ngày 28/5/2013 là 8.816.870.000 đồng. Sau đó Ngân hàng đã thực hiện một phần nghĩa vụ bảo lãnh, đã thanh toán cho Ban quản lý dự án X số tiền 4.878.862.100 đồng. Phần còn lại chưa thanh toán, Ban quản lý dự án X khởi kiện yêu cầu Ngân hàng thực hiện việc thanh toán.

Ngân hàng không thừa nhận việc Bản quản lý dự án X đã gửi cho Ngân hàng văn bản yêu câu thanh toán tiền bảo lãnh, đồng thời khẳng định Ngân hàng không có nhân viên nào tên là Đinh Thị H như trình bày của Ban quản lý dự án X.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án câp sơ thẩm và cấp phúc thẩm không xác minh làm rõ: Ban quản lý dự án X có gửi văn bản yêu cu thanh toán bảo lãnh không, gửi theo hình thức nào? Có nhân viên nào của Ngân hàng tên là Đinh Thị H đã ký xác nhận vào văn bản yêu cầu thanh toán tiền bảo lãnh của Ban quản lý dự án X hay không ? Quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng về việc xử lý các văn bản yêu cầu bảo lãnh như thế nào?...

 Một trong các lý do mà Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm viện dẫn để buộc Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh vì cho rng: Trên thực tế, kể từ sau khi Ban quản lý dự án X có văn bản yêu cầu Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (ngày 28/5/2013), Ngân hàng đã chấp nhận và đã thực hiện một phần nghĩa vụ bảo lãnh theo Thư bảo lãnh và Thư tu chỉnh bảo lãnh đã phát hành. Cụ thể là đã thanh toán cho Ban quản lý dự án X số tiền 4.878.862.100 đồng.

Tuy nhiên, khi được hỏi về nội dung này, cả Ngân hàng và Công ty cổ phần công trình Y đều xác nhận khoản tiền mà Ban quản lý dự án X nhận được là tiền do Công ty cổ phần công trình Y trả tiền tạm ứng cho Ban quản lý dự án X. Các tài liệu trong Hồ sơ vụ án thể hiện Công ty cổ phần công trình Y có ký Ủy nhiệm chi cho Ngân hàng chi trả số tiền này cho Ban quản lý dự án X. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh, chưa cho đối chất để làm rõ khoản tiền 4.878.862.100 đồng mà Ban quản lý dự án X đã nhận được từ Ngân hàng thực chất là tiền gì: Tiền do Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh hay  là tiền do Ngân hàng làm dịch vụ chuyển tiền cho Công ty cổ phần công trình Y để Công ty cổ phần công trình Y trả tiền cho Ban quản lý dự án X?

Với nhiều vấn đề chưa được làm rõ, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm kết luận Ban quản lý dự án X đã thực hiện đầy đủ các điều kiện để được thanh toán bảo lãnh theo Thư bảo lãnh và Thư tu chỉnh bảo lãnh do Ngân hàng phát hành là thiếu căn cứ.

Như vậy có thể thấytừ việc thu thập chứng cứ chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm trên đã đánh giá, kết luận và quyết định buộc Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là thiếu căn cứ, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng. Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm nêu trên đã bị cấp giám đốc thẩm hủy án để xét xử lại ở cấp sơ thẩm.


Thông báo khác:

Trang: 1/2
Chuyển đến: